Forgot password?

Ẩn quảng cáo - Esc

Thích bài này? Bài trướcBài sau

TìnhOnline

Mon Sep 19, 2011 12:42 am

#1
  • TìnhOnline

TìnhOnline



Thành viên thân thiết
Thành viên thân thiết
Gia Nhập Gia Nhập : 12/09/2011
Bài Viết Bài Viết : 259
Điểm Thưởng Điểm Thưởng : 4640
Cám Ơn Cám Ơn : 58
Ai Giết Người Empty Ai Giết Người

Về
cái thời đại gần đây, trong xóm Cầu Đá ở làng Hội Xá có
một người đàn bà góa chồng, tuổi ngoài bốn mươi.

Từ
khi đức phu quân bà vui thú non bồng, còn bà ở lại chốn hồng
trần thời chăn tằm, hái dâu, hàng xay hàng xáo, giữ tiết thờ
chồng và nuôi hai đứa con trai bồ côi cha đi học.

Bà vốn
người họ Nguyễn, năm 20 tuổi thời tơ xe chỉ kết về họ Lê, lấy
kế một ông đồ tuổi ngoài ba chục, đã có một đứa con riêng vợ
trước để lại lên bốn. Không ngờ trăng già độc địa, giữa đường
vội cắt gánh loan hoàng, gối uyên ương nỡ đem chia nửa, gây nên
một cái bi kịch kẻ dương gian, người âm phủ, đôi đường cách
trở rất bi ai! Năm bà chẵn ba mươi, thời ông từ biệt bà mà
chơi nơi Lạc quốc.

*
* *

Có một hôm, mặt trời
đà xuống núi, vừng trăng mới lên non, chuông triêu mộ trong làng
đổ dồn khắp chốn, người làm trong các khu ruộng chiêm đã đuổi
trâu về nghỉ tối, kẻ đi người lại vắng tanh, trên con đường
vào chùa Hương Tích, cách mé trong cái quán Đìa độ chừng hai
mươi thước tây có một cô con gái trạc ngoại đôi mươi, nón quai
thao, giày mõm nhái, quần lĩnh áo băng, khăn xa tanh, yếm nhiễu
đỏ, vòng hoa, nhẫn hột coi rất phong lưu, bị mấy nhát dao ở
cuống họng và cạnh sườn, nằm sóng sượt ra ở dưới rặng tre
bên bờ mạ, hành trang đồ vật y nguyên, không mất tí gì cả. Lạ
thay! Không biết tiền oan nghiệp chướng ra làm sao, ai thù ai
ghét mà mảnh hồng nhan phơi nơi đất khách, thảm đát nhường
vầy! ở đâu đến đó cơn cớ những gì? Biết ai mà hỏi!
Tuần
phiên làng Yến Vĩ đi canh đồng đêm vừa đến đó, thấy dưới bụi
tre thấp thóang bóng người mặc áo trắng, đương ngồi bên bờ mạ
bèn đi xuống thời bắt gặp hai chàng thiếu niên hai bên mà cái
thây người con gái thời ở giữa, đứa lớn tay cầm dao, đứa nhỏ
áo dây máu liền hô hóan nhau lại bắt trói giật cánh khỉ cả
đôi đem giải về điếm.

*
* *

Trong lúc tuần phiên
làng Yến Vĩ bắt được hai kẻ giết người thời trên con đường
khuất khúc ở bờ sông Đào, sông Hát dưới bóng trăng lờ mờ ở
men làng Thượng, làng Sêu có một người con trai thành thị chân
bước vội vàng, lòng lo ngay ngáy, đi một quãng lại ngoảnh cổ
lại sau nhìn, nhường e, nhường sợ tai vạ đến mình. Nhưng xem
vẻ ra có ý vui lòng hả dạ, miệng lẩm bẩm rằng: "Xin đức
Thượng đế ngài chiếu giám cho tấm lòng thành kính của tôi
đối với bạn tôi, những kẻ hại nhân thời nhân hại, ngài soi
xét cho chúng tôi được phận nhờ".

Cách sau người ấy, độ
năm kilômet thời không biết rằng người ấy có biết đến hai kẻ
giết người cổ đeo gông tre, tay bị thừng buộc theo những người
tuần phiên và kỳ dịch làng Yến Vĩ giải nộp quan phủ Mỹ Đức
đó không? Ai ngờ cùng chung một con đường, cùng chung người đi
đường mà có cái bi kịch diễn ra cũng trong một khoảnh khắc,
một bên lủi thủi một người, không ai gông trói mà lòng cũng
ngổn ngang. Vậy các độc giả cao minh cho cái bi kịch nào thảm
hơn?

*
* *

Một hồi ba tiếng trống buổi hầu
sáng, quan ra công đường, nha lại dân sự đều chực hầu rất đông,
ở hàng cơm cổng phủ, các bác tuần phiên đã cột hai tên ác
phạm vào cột nhà hàng mà ngồi hầu cơm cụ chánh tổng tổng
mình và thầy lý thầy phó làng mình, người nào người nấy
đều cơm no rượu say cả rồi, nghe tiếng trống bấy giờ mới điệu
tội nhân vào nộp trước quan phụ mẫu.

Quan phụ nhận giấy
giải nộp xong, nhất diện ngài sai thầy đề cùng mấy tên lính
lệ, tùy phái đi ngay với chánh tổng Phù Lưu thượng và lý
trưởng Yến Vĩ về chỗ người bị giết nằm khám nghiệm lại để
đem chôn; nhất diện ngài sai thầy thông lấy cung hai tên ác phạm
rồi ngài truyền cai lệ đem xuống trại giam. Trong khẩu cung
thời một người khai tên là Lê Văn Hữu 25 tuổi, cha mẹ chết cả
rồi, một người khai tên là Lê Văn Cung, 18 tuổi, cha chết mẹ
còn, chỉ khác tên khác mẹ, còn họ và tên cha cùng các lời
cung về việc giết người con gái thời giống nhau hết. Hai cậu
cùng khai tên cha là Lê Văn Từ ở làng Hội Xá, duy cậu bé thời
còn mẹ là Nguyễn Thị Nhân mà đều nói rằng: "Vốn con nhà học
trò xưa nay lương thiện không có làm xằng bao giờ". Sự giết
người thời cùng chối rằng: "Tình cờ gặp thời xem, chớ không
phải anh em mình giết".

*
* *

Nguyễn Thị Nhân là
tên ai? Các độc giả hẳn cũng biết ngay là tên bà ngoài bốn
mươi tuổi, góa chồng từ năm ba mươi, ở xóm Cầu Đá mà Lê Văn
Từ chính thực là tên ông đồ chồng bà. Lê Văn Cung con bà, còn
Lê Văn Hữu là con người vợ trước vậy.

Đêm hôm ấy, mà
Hữu và Cung phải bắt thời bà ở nhà vẫn tưởng như mọi khi hai
con mình đi chơi cùng các bạn học quanh vùng hoặc ở Phú Yên,
hoặc sang Bài Lam hay là ở Bạch Tuyết, không ngờ sáng ra bà
vừa cất gánh gạo ra chợ Đục Khê bán, đến cổng chợ đã thấy
người ta xôn xao chuyện con bà giết người phải bắt nộp quan.
Ôi! Tin đâu sét đánh lưng trời, khiến cho lòng người mẹ góa kia
không nung mà nóng, chẳng cắt mà đau. Sụt sùi giọt lệ trở
lại gia đình, nào hai con đâu? Mà chỉ thấy một miếng đất
vườn, ba gian nhà gỗ. Lẽ đâu tin ấy lại là thật? Hay hai con ta
ở trong nhà? Nào có đâu! Chỉ thấy bàn thờ: đây là thổ công,
đây là tiên tổ, đây là đức phu quân! Nghĩ mà thương thay cho con
trẻ, tưởng lại giận thay với trời già! Kìa mặt trời đã gần
đứng bóng, trẻ đầu làng đã đi xem về, đã thấy đồn đến tai
rằng quan phái cụ tá về khám thây người con gái trẻ, thôi thế
nào mà chẳng lụy đến thân già này thôi. Khóc chán lại nghĩ,
nghĩ chán lại khóc, không còn biết tính ra sao, bà chỉ còn
có lên đèn hương mà cầu nguyện trước từ đường mà thôi.

*
* *

ở
dưới hương thôn, người vợ góa chồng thương con vật vã, lúc ấy
đương là lúc thầy thông vặn vẹo lấy khẩu cung hai người con ở
chốn công đường quan phủ Mỹ Đức. Lấy xong khẩu cung, thời phó
lý và tuần phiên làng Yến Vĩ ký dự thính khẩu cung, chu tất
mới ra chào quan xin về. Các bác tuần phiên với thầy phó ra
ngoài cửa phủ thời anh em ai đã xuống đến trại xỏ chân vào
cùm rồi vậy.

Quan xem cung xong, liền phê hỏa bài cho
thầy đề, lập tức khi đệ biên bản về phủ thời phải đòi kỳ
lý làng Hội Xá lên để chất vấn tính hạnh và căn cước hai tên
chối rằng không giết người này.

Hỏa bài một xuống
thời kỳ lý đi ngay theo cụ đề về phủ. Song trước khi đi những
lễ trình diện cụ tá, lễ trình tờ khai quan, hiện đã tống
nhà người gái góa kia bắt phải biện cả. Nhưng dân Hội Xá lên
quan, cụ này thời khai rằng: anh em nhà ấy vốn lương thiện,
còn sự giết người này có hay không không dám chắc; thày kia
thời khai rằng: không dám quyết rằng anh em nhà ấy có giết
người hay không song vốn là người đáng tình nghi xưa nay...

*
* *

Đủ cả giấy má, bấy giờ quan phủ ngài mới đem hỏi mỗi người một lúc để tra xét cho ra.

Lê Văn Hữu bị hỏi trước:- Sao mà trời vừa tối hai anh em bay đã dám cả gan giết người? Quân này gớm thật!

- Dạ bẩm lạy quan lớn, đèn trời soi xét, chúng con quả thị hiền lành.

-
Không giết người thời sao bay đến đấy làm gì? Mà khi chúng nó
bắt được bay, tay mày cầm dao, áo em mày đặm máu, chúng bay
đương lúi húi lấy của của con bé ấy. Căn cước của chúng bay
đâu, khai cũng đáng tình nghi thời bay còn chối thế nào được?

-
Dạ bẩm lạy quan lớn, sinh phúc cho chúng con được nhờ, nhân lệ
thường của anh em chúng con cứ đến chiều thời rủ nhau đi đồng,
vừa mới ở dưới đồng lên, đến đấy thấy lạ mà xem thực không
có giết.

- Mày nói thật vô lý! Có thế nào cứ thú
thực đi, ông liệu đường cứu cho, không có thời cứ lý kết án
bay chối sao khỏi được.

- Dạ bẩm quan lớn là cha mẹ dân
xin ngài xét cho, quả thực là hai anh em con vừa đi đến đấy
thấy lờ mờ mà không rõ rằng người hay là cái gì mà giống
như người, mới bảo nhau rẽ vào đó thời em con mò vào trước
xem người rồ hay phải bệnh lại nằm đấy, sau em con kêu lên là
người con gái Hà Nội đi chùa bị giết, sườn có con dao còn
cắm đó, con vội vàng rút con dao vừa xong, thời thích ngộ
tuần phiên đến.

Quan nghe xong lại đòi Lê Văn Cung lên hỏi,
rồi sai lính đem Hữu xuống trại. Quan hỏi cung thời cũng khai
như lời anh. Quan bẻ rằng:

- Sao bay thấy thế bay không hô hoán ngay dân làng đến rồi bay hãy xem có được không? Thực là bay giết.

Cung thưa rằng:

-
Chúng con vừa mới gặp, cái lòng thương người chết nó làm cho
quên mất lẽ quốc gia, bởi sơ ý có thế mà nay nên tội.

Quan hỏi xong, lại sai đem xuống trại giam.

*
* *

Buổi
hầu hôm sau, đông đủ cả quan nha, cơ, lệ, cùng mấy ông chánh
tổng, tuần huyện sở tại đem việc ra bàn định vẫn lấy làm
ngờ.

Thầy đội lệ bẩm quan xin tấn. Quan liền sai đem vồ
nọc chão, roi kìm cặp, hỏa lò than, đủ các thứ để ở sân công
đường, rồi đem phạm nhân ra tấn khảo. Quan truyền khảo Lê Văn
Cung trước.

Lính đem Cung ra đóng cọc rồi trói giật cánh
khỉ ra đằng sau, chìa đầu gối ra để đợi khảo. Lê Văn Hữu trông
thấy thế nghĩ thương em ứa hai hàng nước mắt, xin ngay vào
trước cửa quan để thú tội cho em khỏi phải khảo.

- Bẩm
lạy quan lớn, ngài ngồi cao xét rõ, nay cái lý đã hiển nhiên
rằng anh em chúng con giết người, không sao chối được. Vậy con
xin thú quan lớn rằng con giết, còn em con nó ngu dại nó chẳng
biết gì cả. Mẹ hai con có một mình nó, xin quan lớn làm tội
con mà tha cho nó.

Cung thấy anh nói thế bèn bẩm to lên rằng:

-
Anh con sợ con phải khảo đau khổ mà ra nhận tội trước đi đó.
Thôi quan trên đã định tội cho chúng con giết người chúng con
không thể chối được, vậy con xin thú thực là con giết, chớ anh
con xưa nay vốn người lương thiện, trong bọn nho lâm đều yêu quý
cả.

Hữu thấy em nói thế liền nói với quan rằng:

-
Bẩm lạy quan lớn, em con không biết giết người, nó lành lắm
chẳng qua nó thương con mà nó nhận liều đó mà thôi, quả thị
con cầm dao, con đâm con bé ấy, em con không biết sự tình gì,
xin quan lớn tha cho nó về để nó phụng dưỡng mẹ hai con, cho
mẹ con được vui lòng, còn con mới chính là có tội.

Cung lại thưa quan rằng:

-
Bẩm lạy quan lớn, anh con nhận bậy, chớ chính con giết nó, vì
con thấy của mà ham, giết xong đưa dao cho anh con cầm, chứ không
phải là anh con giết, chẳng qua anh con thương con bé dại mà
muốn cứu con, gánh lấy tội đó thôi, chính con mới là có tội.

-
Em ơi, sao em nhận chi thế, chính anh là cái thằng tham sắc
hiếp gian không được rồi giết người ta, em còn thương làm gì
thằng hung ác nữa... Bẩm quan lớn, con đây mới thật là có tội.

Hai
anh em Hữu và Cung, anh nhận là anh giết, em nhận là em giết
làm cho suốt từ quan đến nha, cả bên cơ lẫn bên lệ, không ai
biết là người nào giết người, kẻ thời nhận vì tham tài mà
giết, kẻ thời nhận vì tham sắc mà giết, không biết ai oan ai
tội.

*
* *

Hai anh em Hữu và Cung đều nói phân
vân như vậy, quan phủ Mỹ Đức không hiểu thế nào mới bẩm đệ
cả hồ sơ và giải cả hai người ấy lên quan Tổng đốc Hà Đông.

Ra
đến tỉnh đông đủ quan thượng, quan án, quan thương cùng bên
phiên, bên niết hỏi thời hai anh em nhà ấy đều cũng cứ kẻ này
khăng khăng vì tham tài mà giết, kẻ kia khăng khăng vì hiếu sắc
mà giết, quan tỉnh cũng lấy làm khó xử mới bẩm lên quan kinh
lược. Quan kinh lược bèn sức cho đòi người mẹ lên hỏi. Mà cái
tiếng hai anh em Lê Văn Hữu yêu mến thương xót nhau đã lừng lẫy
lên ở Bắc Kỳ, cơ hồ cả nước Nam đều biết, ai nghe cũng lấy
làm cảm động.

Trong lúc ấy, thời cái người thành thị
cùng đi một đường với anh em nhà họ Lê cách nhau 5 kilômet kia
đương thênh thang ở trong chốn Thăng Long, dưới non Nùng trên sông
Nhị.

*
* *

Thì giờ như tên bắn, ngày tháng như
thoi dưa, bà Nguyễn quả mẫu ngồi nhà tính đốt ngón tay đã
được hai tháng lẻ! ồ! Mới ngày nào một vẻ thiều quang thiên
hạ nô nức chơi xuân trẩy hội mà đến nay còn một tháng nữa
thời đã đến tết đoan dương. Nghĩ đến lúc tàn xuân trăng vọng,
con mình phải bắt mà cái sầu nay đã đến cùng cực không biết
thế nào rồi! Xiết bao nhiêu tốn kém về dân làng khai báo mà
đến nay chợt lại có lính cho đòi ra đến kinh kỳ. Mảng tưởng
đến chỗ chồng con du học xưa nay, ra đến nơi lòng càng thảm
đạm.

Này, buổi hầu sáng, trống vừa thôi điểm cậu lính
tuần đã giải một bà cụ mặt mũi âu sầu chua xót, từng đi qua
cái con đường người con trai thành thị đi trước 5 kilômet tuần
phiên làng Yến Vĩ giải con mình đi sau, mắt đã nhìn thấy cửa
phủ Mỹ Đức, cửa dinh quan tổng đốc Hà Đông, bấy giờ mới đến
tòa kinh lược mà vào hầu vậy.

Vào tới nơi sụp xuống lạy, quan liền hỏi:

- Con mụ kia, xưa nay trong gia đình sao không biết dạy con để cho con làm điều phi pháp.

-
Dạ bẩm lạy cụ lớn, ngài là sao phúc của muôn nhà, Phật sống
của trăm họ, xét thấu tình cho con. Cha chúng nó ngoài bốn
mươi thời chết vốn cũng là người học trò thi hai ba khoa tam
trường về nhà dạy học, con hơn mười năm nay chẳng may ở góa,
giữ tiết thờ chồng, cũng mong nuôi cho con nối nghiệp thư hương,
không dè tai bay vạ gió, hai con con dại dột thế nào, sinh con
ai nỡ sinh lòng, cụ lớn thương cho con được phận nào con nhờ
phận ấy.

- Không, ta không có làm tội mụ làm chi, ta chỉ hỏi mụ cứ thực mà nói trong hai đứa, đứa nào ác hơn.

-
Trăm lạy cụ lớn, hai thằng con con xưa nay, chúng nó chăm chỉ
học hành, nết na đứng đắn cả, người trong vùng con ai cũng
khen ngợi, chẳng hay sự giết người này ra thế nào con không
dám biết. Duy con có nghe trong sách mà chồng con thường giảng
đọc xưa nay rằng: "Sát nhân giả tử", vậy thời phép nước, hễ
giết người thời phải làm tội chết, nay con xin cụ lớn làm
tội thằng em, còn tha cho anh nó được về thời chúng con được
nhờ ơn cụ lớn lắm lắm.

Quan kinh lược thấy nói lấy làm lạ lắm bèn hỏi luôn rằng:

-
Thường tình con người ta, ai cũng yêu con bé hơn con lớn, nay con
bé lại chính là con mụ đẻ ra, con lớn lại là con người vợ
trước sao mụ lại không xin tội cho đứa bé mà lại vì đứa lớn
thế thì nghĩa làm sao?

- Dạ bẩm lạy cụ lớn ngàn lần,
thằng Lê Văn Cung là con con đẻ ra, thằng Lê Văn Hữu là con chị
trước con đẻ ra thật. Nay bố nó đã vì nó bồ côi mẹ mà lấy
con về để làm dì ghẻ nó. Lúc bố nó hấp hối chết có gọi
con lại gần cạnh giường, cầm lấy cổ tay con trỏ vào thằng ấy
mà dặn lại con hai ba lần rằng: "Bà mày vì tôi mà chăm nom cho
nó, may ra mà nó nên người được thời tôi và mẹ nó ở dưới
suối vàng cũng được đội ơn". Con đã nhận lời mà rằng: "Xin
ông đừng có ngại, trăm sự tôi xin chu tất, chẳng may trời phân
rẽ hai vợ chồng ta, nay người mất kẻ còn, cái đau lòng kể sao
cho xiết! Thôi mệnh trời đã thế, ông cứ an giấc ngủ trăm năm,
hai đứa đứa nào cũng con tôi cả, tôi hết lòng gây dựng". Nay
nếu con làm mẹ kế nó thời cũng là mẹ nó, đã là mẹ mà
không yêu thương lo liệu được cho con, sao cho là có nhân? Coi con
chồng là con chồng, con mình là con mình, chỉ biết âu yếm con
mình mà phí hoài con chồng sao cho là có nghĩa? Khi bố nó
chết đi có ân cần dặn lại như thế, con đã nhận lời, phân lại
nhường kia, nếu bây giờ không chu toàn được cho nó thời là nói
dối người chết không có giữ được lời, sao cho là có tín? Làm
người cốt lấy cương thường làm trọng, nay bỏ cả nhân, cả
nghĩa, cả tín đi thời còn định làm mẹ người mà sống ở trên
đời sao được?

Quan nghe thấy lời bà cụ nói rất là cảm
động, bèn gọi lính đưa vào nhà trong cho yết kiến bà lớn,
rồi ngài tiễn chân 5 tấm lụa, và hai nén bạc, hứa rằng sẽ
nghĩ phương kế mà cứu cả cho 2 người con.

*
* *

Cái
tấm lòng liệt nữ của bà Nguyễn quả mẫu hôm trước, hôm sau
người Hà Nội đã truyền tụng vang lừng đâu đâu cũng biết.

Cách
hai hôm sau, buổi hầu chiều, trước công đường nha kinh lược có
một người tuổi trẻ mặt mũi khôi ngô, chân tay mập mạp, khăn
lượt áo the, hình dung nho nhã, sụp lạy quan kinh lược xin chịu
cái tội của hai người anh em nhà họ Lê mà đi sau người ấy hôm
nào cách năm kilômet ở con đường lên phủ Mỹ Đức kia.

Quan kinh lược lấy làm lạ. Người ấy lạy xong, đứng chắp tay ngang ngực mà bẩm rằng:

-
Bẩm lạy cụ lớn, tên con là Lương Xuân Tín, năm nay 28 tuổi, học
trò trường Đốc học, ngụ ở phố Hàng Thiếc Hà Nội. Từ năm 13
tuổi có kết bạn được một người anh em rất thông minh hào hiệp
tên là Dương Đức Nghĩa ở phố Hàng Bông. Cha anh ấy đỗ cử nhân
có tiếng, mất từ khi anh ấy mới lên bốn, bà cụ cử người rất
trinh tiết, trung hậu; kết tóc năm 19 tuổi với người con gái 18
tuổi ở phố Hàng Đậu tên là Lý Thị Lợi, nhà vợ cũng giàu
có xưa nay. Cưới vợ về một năm, đẻ được đứa con trai, năm sau
đứa bé ấy mất mà bà thân mẫu cũng từ trần; bỗng năm kia,
bỗng dưng vô cớ mà bạn con đã phải nằm trong nấm cỏ ở đồng
làng Kim Lũ gần đây! Chao ôi! Dòng nhà ấy bây giờ tuyệt tự.
Nghĩ đến bạn con lúc nào con cũng thâm gan tím ruột, giận thay
cho kẻ tham dâm nỡ hại khách anh hào! Thương thay nỗi oan không
làm sao bộc bạch được! Cái đám cưới tháng Chạp năm ngoái mà
linh đình ở chốn kinh đô, tuy Cụ lớn ngồi cao nhưng nghe xa,
nhắc tới chắc cụ lớn còn phảng phất rằng đã có kẻ thưa lọt
tai ngài cái ngày tên khách Minh Hương ở Hàng Ngang đón vợ. Ôi!
Vợ nó đấy là ai? Chính là tên Lý Thị Lợi. Ngày ấy là ngày
hai đứa giết người nó đã về ở với nhau. Nguyên từ khi bà cụ
cử qui ẩn đi rồi, anh Dương Đức Nghĩa anh trên chẳng có, em
dưới thì không, trọi có hai vợ chồng, âu yếm nhau vô hạn. Ngờ
đâu chồng thực mà vợ hư, chồng ngay mà vợ gian giảo. Thị Lợi
từ khi mẹ chồng chết, việc nhà cờ đã đến tay, mưu với chồng
mở hàng tấm ở Hàng Đào bán. Được ít lâu Thị Lợi giao thiệp
với một tên khách Hàng Ngang, đem ngay lòng tham của, rắp những
sự quên nghì, dở lời chênh lệch cùng tên khách, ra dạ bắc nam
với lại chồng. Tên khách kia cũng tham vẻ má hồng, đặm tình
ân ái, bởi thế mới đồng tâm hại bạn con! Than ôi! Nó giết
bằng gì? Bằng dao? Hay bằng gươm? Bẩm, chẳng dao, chẳng gươm,
chỉ bằng gói thuốc độc. Anh Dương Đức Nghĩa của con kia, nghĩ
mà thương hại, chiều nghe bình văn trong trường quan đốc con về,
ăn cơm xong thời buồn ngủ ngay, sáng mai có tin rằng mất! Chúng
nó làm khéo cho đến nỗi, cái án ấy thành ra mất tích, đến
năm nay con mới dò xét được ra thời việc cũ ấy đã nguội lạnh
không còn có chút nghi gì trong tâm trí người ta cả. Con không
thể nào mà đi cáo quan được nữa. Một là vì chứng cớ của con
ít, hai là vì tiền của chúng nó nhiều. Chúng nó có thể mua
chứng đút tiền, án lên đến cụ lớn, thời con chắc con cũng là
thằng vu cáo, mà thù bạn con cũng không có người trả cho. Nhân
con nghe ở nhà nó mách con rằng vợ chồng nó sắp đi chùa Hương
để làm chay sám hối, đi thời đi lâu đến một cữ mới về. Con
bèn quyết chí đi theo để liệu cơ báo phục. Không biết Phật tổ
ngài thiêng ghét kẻ gian dối mà dun dủi hay sao, con gặp được
dịp rất tốt. Chúng nó đã làm chay xong, chồng thời sốt ruột
về, vợ thời mải đồng bóng, nên con thấy vợ nó hẹn chồng nó
cứ về, đến ngày kia nó sẽ về sau. Con mừng quá, thay hình
đổi dạng, đi theo ngay thằng Chiệc, đến bến đò nó xuống
thuyền, con cũng xuống thuyền. Trời vừa chiều nhân nó không
biết con, con bèn bàn với nó hai người thuê riêng một cái
khoang thuyền trả bội tiền lên để cho rộng đi ra giữa sông
thuyền đến quãng sông Tế Tiêu, con thấy nó đã ngủ say, con mới
giở dậy cầm con dao đập một cái vào sống mũi nó rồi con đâm
lấy đâm để, nó giãy giụa thời con cứ kêu rằng: "Chú Khách mê
hoảng chưa, ngủ mê mà hoảng lạ". Người trong khoang thuyền ai
cũng tưởng thật, còn mấy đứa bơi chèo thời nó mải làm việc
cũng chẳng nghĩ chi đến. Nó giẫy một lúc thời nó chết.
Khoang thuyền ấy ở về đàng lái, cho nên máu chảy ra cũng không
có ai biết. Thuyền đi đến chỗ quá phủ Mỹ Đức gần đến Vân
Đình, đấy thuộc về làng Phùng Xá con mới bảo lái đò dừng
thuyền lại cho con lên con đi đồng, con liền gọi con mụ ngồi
gần lái lên hỏi, con kể sự tình thằng Khách bất nhân là thế,
con vì bạn báo thù là thế. Nó giật mình lo sợ, con bèn cho
nó trăm bạc và xui nó về bảo nhau vứt cái xác ấy xuống sông,
rồi đổ mau khách ở đò lên bến đi, không thời lộ chuyện thời
nó rầy rà. Nó xuống thuyền thời con theo con đường men theo bờ
sông, đi một quãng được chỗ khuất lại đổi quần áo mà về
chùa Hương đợi đón giết con vợ nó là đứa chính tay đã giết
bạn con mà là chồng nó trước kia. Bởi con vợ nó biết con rõ
lắm, nên con phải giả làm kẻ ăn mày bù đầu xõa tóc, bôi nhọ
mặt, cắt da chân chảy cả máu ra để cho được hệt... Tối hôm
trước về ngủ ở quán Đìa, sáng dậy ra chợ Đục Khê ăn cơm, đi
con đường quán Ông Thang vào đò Suối, trưa thời đến Thiên Trù,
nó còn ở đó, chờ mãi đến nhá nhem tối, nó lên đồng xong mới
ra hàng ăn cơm rồi cùng với bạn lũ nó đi ra bến Hội Xá. Con
liền theo bọn nó, ở bến đò Suối bước lên đã gần qua hết
làng Yến Vĩ, con đương bối rối không biết hạ thủ bằng cách
nào. Nguyên con ấy nó rất bạo dạn, thích ngộ (1) đến đó, nó
bảo các bạn nó cứ đi bến trước để nó rẽ đi đồng đã. Thật
là giờ báo phục của con đã đến, con bèn theo nấp ngay ở dưới
gốc búi tre, ước nửa giờ đồng hồ thời nó lên qua đó, con
nhìn trước nhìn sau thấy vắng nên con ra liền nắm lấy tay nó,
vốn nó hay trang điểm nhân hôm ấy lại nắng ráo, nên y phục nó
chỉnh tề, nó tưởng con là người ở đấy ra cướp giật, con không
để cho kêu, một tay giữ nó, một tay rút dao ra mà bảo nó
rằng: "Muốn nghe lời tôi nói thời im, hễ kêu thời dao này vào
cổ ngay". Nó van lạy xin vâng.

- Chị có biết tôi là ai không?

Nó đáp rằng:

-
Nghe tiếng thời giống bác Lương Xuân Tín bạn với nhà tôi xưa,
song hình thù thời khác, vì cớ gì mà ám ảnh tôi? Đây, vòng
hoa nhẫn hột của tôi, muốn lấy hết đi tôi cũng xin vâng.

-
Không, tao đây không phải là giết người lấy của. ừ, tao chính
là Lương Xuân Tín, phen này nguyện có trời cao làm chứng, tôi
xin báo thù cho anh Dương Đức Nghĩa đây. Hỡi Dương Đức Nghĩa ơi,
anh đến ngày nay mới thực là an giấc ở dưới suối vàng không
còn ân hận! Này, mày giết chồng trước đi theo thằng Khách, nay
thằng Khách cũng đã chết trong tay tao rồi, thôi bụng cá là
mả thằng Ngô, đây thời là mồ con đĩ...

Nói đến đây con e
dùng dằng lâu thời lỡ, bụng con đã thấy rợn, con liền đâm
mạnh một nhát vào cổ, nó kêu đánh "ức" một cái thời ngã,
con lại sợ chưa chết liền rút dao đâm mấy nhát rồi cắm vào
cạnh sườn, vừa xong thời chợt nghe có tiếng người rủ rỉ với
nhau trên con đường quán Đìa, con liền gạt nó vào búi tre rồi
lẩn vào sau cái ruộng dâu gần đấy, nhìn ra thấy có hai người,
quần áo trắng đi xuống ruộng mạ. Con lượn ra quán Đìa lấy
những bị gậy áo tơi rồi qua cầu Hạ Đoạn đi một mạch. Đến
chợ Sêu, người thấy mệt bèn ra bến tắm rửa sạch sẽ, thay
quần áo mới vào hàng ăn quà, nghỉ một lúc lâu đến quá nửa
đêm thời đi. Ôi! Tội con thật là tội, song lòng con rất thỏa
lòng, con nghe rằng nghĩa bè bạn là một đạo lớn trong nhân
luân, trong Kinh Lễ có nói: "Bằng hữu chi thù bất dữ đồng
quốc" (Thù bè bạn không cho nó ở cùng một nước với mình).
Thánh nhân đã dạy như thế, nghĩa làm người thời phải có nhân
luân, giống người mà hơn giống vật chỉ có thế, nếu không có
nhân luân thời thà chết đi còn hơn. Khi bạn con sống ước hẹn
những cưu nhau trong lúc nguy hiểm, thương nhau trong lúc nghèo
nàn... Nếu mà nay quên thời là "thất tín"; bạn chết ở trong
tay kẻ hung ác nếu mà không báo thù cho thời là "bất nghĩa";
sợ đeo tội giết người nếu mà không tiết được cái oán hận cho
bạn ở dưới cửu tuyền thời là "vô hiệp" giết người nếu mà
bỏ trốn thời là "vô dũng"; mình làm nên tội nếu để cho kẻ
khác phải mang thời là "bất nhân", làm điều phi pháp để lụy
đến gia đình, tộc thuộc thời là "vô trí"; đã không có tín,
nghĩa, hiệp, dũng, nhân, trí sao cho được làm người quân tử.
Con mà chậm đến đây chỉ còn chút tình trong gia tộc, nay thu
xếp đã xong, xin đem mình chịu tội trước cửa cụ lớn.

Tạp chí Nam phong,
số 28 - Tháng 10-1919
Trả lời chủ đề này

Reply by Facebook
Điện thoại: 01692521505 - Email: phutu01@gmail.com - Yahoo: ad_phutu@yahoo.com - Bảng báo giá